Viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn, mạn tính và dễ tái phát lại nhiều lần, bệnh không gây tử vong ngay nhưng có nguy cơ dẫn đến tàn phế cao, gây ảnh hưởng đến khả năng vận động, khiến người bệnh khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là ảnh hưởng đến khả năng lao động.
Viêm khớp dạng thấp ảnh hưởng đến khả năng lao động
Theo thống kê hiện nay cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân mắc viêm khớp dạng thấp trên thế giới chiếm khoảng 3% dân số và thường gặp ở phụ nữ độ tuổi trung niên. Đây là con số đáng lo ngại do viêm khớp dạng thấp là bệnh tự miễn điển hình với sự tham gia của nhiều yếu tố như: virus, vi khuẩn, cơ địa (giới tính, tuổi), di truyền, đặc biệt là môi trường sống... Bệnh hay xảy ra bắt đầu tại những khớp nhỏ như: bàn tay, ngón tay, cổ tay, cổ chân, bàn ngón chân,… đối xứng hai bên. Các khớp bị viêm, sưng, nóng, đau âm ỉ cả ngày, đặc biệt là ban đêm, gây cứng khớp vào buổi sáng, bệnh nhân phải vận động, xoa bóp mới có thể đứng dậy được.
Viêm khớp dạng thấp khiến bệnh nhân đối mặt với những cơn đau và giảm sút khả năng lao động ngay trong những năm đầu mắc bệnh. Theo các chuyên gia, sau 5 năm bị viêm khớp dạng thấp thì chỉ 40% bệnh nhân còn khả năng lao động bình thường, 16% bị mất chức năng nghiêm trọng, sau 10 năm mắc viêm khớp dạng thấp, 40% - 60% số bệnh nhân mất khả năng lao động, sinh hoạt, các khớp có thể biến dạng, gây tàn phế. Bên cạnh đó, viêm khớp dạng thấp còn gây ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể (tim, phổi…), xuất hiện các triệu chứng toàn thân (mệt mỏi, sốt cao, nổi nốt thấp dưới da,...).
Viêm khớp dạng thấp gây mất khả năng lao động của người bệnh
Để điều trị viêm khớp dạng thấp, bác sĩ thường chỉ định cho bệnh nhân dùng các loại thuốc kháng viêm như: thuốc giảm đau chống viêm không steroid, corticoid,... Tuy nhiên những nhóm thuốc này gây tác dụng phụ tới hệ tiêu hóa như: viêm loét dạ dày, ảnh hưởng các chức năng gan, thận,… Khi khớp bị biến dạng, bệnh nhân có thể phải dùng nẹp chỉnh hình, phẫu thuật cắt bao hoạt dịch hoặc thậm chí thay khớp. Quá trình điều trị viêm khớp dạng thấp cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc, người bệnh và gia đình thì hiệu quả sẽ cao hơn.